Trang chủ Tin tức-Sự kiện

Cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975: Thời cơ và kế hoạch

28/04/2025
Thắng lợi của Chiến dịch Hồ Chí Minh là thắng lợi vĩ đại nhất, trọn vẹn nhất, đánh dấu sự kết thúc thắng lợi trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ cứu nước, miền Nam được hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất, non sông thu về một mối, mở ra một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập, tự do, thống nhất và xây dựng chủ nghĩa xã hội trên cả nước ta. Đã 50 năm trôi qua, nhưng những dư âm của chiến thắng vĩ đại mùa xuân 1975 vẫn còn vang mãi.

Bối cảnh lịch sử xuất hiện thời cơ giải phóng hoàn toàn miền Nam

Ngày 27/1/1973, Hiệp định Pari về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam được kí kết, đánh dấu một bước ngoặt quan trọng, mang tính quyết định, mở ra thế lực mới cho cách mạng Việt Nam. Cục diện chiến trường và so sánh lực lượng giữa Quân giải phóng với Quân đội Sài Gòn từng bước chuyển biến theo chiều hướng ngày càng có lợi cho lực lượng cách mạng.
 

Cố vấn đặc biệt Lê Đức Thọ đại diện Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Lễ ký tắt Hiệp định Paris ngày 23/1/1973
Nguồn: Cục Lưu trữ văn phòng Trung ương Đảng


Để đáp ứng yêu cầu của tình hình và nhiệm vụ mới, tháng 10/1973, Ban Chấp hành trung ương Đảng khóa III, họp Hội nghị lần thứ 21 về tình hình cách mạng miền Nam sau Hiệp định Pari, Hội nghị đã chỉ rõ: “Mặc dù Mỹ đã rút quân, nhưng ở miền Nam vẫn chưa có ngừng bắn, hòa bình chưa thực sự lập lại; Chính quyền và quân đội Sài Gòn được Mỹ giúp sức tiếp tục làm công cụ để thực hiện chủ nghĩa thực dân kiểu mới của Mỹ ở miền Nam, hòng chia cắt lâu dài Việt Nam.

Về phía ta “thế và lực của cách mạng miền Nam hiện nay mạnh hơn bất cứ thời kì nào từ năm 1954 đến nay” [1]. Hội nghị đã đề ra quyết tâm lớn hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam. Nghị quyết Hội nghị nêu rõ: “Con đường của cách mạng miền Nam là con đường bạo lực cách mạng. Bất kể trong tình hình nào, ta cùng phải nắm vững thời cơ, giữ vững đường lối chiến lược tiến công và chỉ đạo linh hoạt để đưa cách mạng miền Nam tiến lên”.

Thực hiện Nghị quyết trung ương, tại các địa phương miền Bắc vừa đảm bảo ổn định đời sống nhân dân, vừa tập trung lực lượng đến mức cao nhất để chi viện cho miền Nam. Tính chung trong 2 năm 1973-1974, miền Bắc đã huy động 25 vạn thanh niên nhập ngũ, trong đó lựa chọn 15 vạn thanh niên gấp rút huấn luyện, bổ sung quân số cho các chiến trường miền Nam và ngay tại miền Nam, lực lượng vũ trang cũng được bổ sung kịp thời và phát triển nhanh chóng. Chỉ trong 2 năm 1973-1974 đã có 12.000 thanh niên ở các vùng giải phóng ra nhập lực lượng chủ lực quân giải phóng. Bên cạnh đó, lực lượng vũ trang địa phương cũng được bổ sung them quân số và nâng cao chất lượng chiến đấu. Số lượng bộ đội địa phương và du kích chiến đấu tại chỗ đã tăng lên từ 117.128 người năm 1973 lên 145.475 người năm 1974 và đến năm 1975 đã lên tới 296.184 người. [2]

Với trí lực song toàn của hàng triệu trái tim và khối óc, bộ đội đường Hồ Chí Minh đã xây dựng được mạng đường chiến lược với tổng số chiều dài khoảng 20.000km, gồm 5 đường trục dọc, 21 đường trục ngang ở cả phía Đông và Tây Trường Sơn vào đến tận chiến trường Đông Nam Bộ: với gần 17.000 km đường cơ giới, trên 3000km đường giao liên, gần 1.400 km đường ống dẫn xăng dầu, hàng nghìn km đường sông suối và đường dây thông tin kéo dài suốt dọc tuyền trở thành huyết mạch nối liền hậu phương lớn miền Băc với tiền tuyến lớn miền Nam.
 

Thanh niên miền Bắc hăng hái lên đường vào chiến trường miền Nam


Cùng với việc tăng cường quân số cho các đơn vị vũ trang, trong 2 năm 1973-1974 đã có hàng vạn thanh niên xung phong và cán bộ, nhân viên chuyên môn kỹ thuật được điều động vào miền Nam. Trong số đó có nhiều cán bộ Dân – Chính – Đảng là cán bộ, bộ đội miền Nam tập kết ra Bắc sau hiệp định Giơnevơ năm 1954 được điều động trở về miền Nam làm nhiệm vụ. Song song với đó là khối lượng vật chất từ miền Bắc chi viện cho miền Nam cũng tăng lên rất lớn. Từ tháng 1 đến tháng 9/1973 miền Bắc đã đưa vào miền Nam 140.000 tấn vật chất các loại, tăng gấp 4 lần so với năm 1972 [3]

Nhờ sự chi viện giúp đỡ to lớn của hậu phương miền Bắc đã giúp cho lực lượng vũ trang nhân dân gồm 3 thứ quân ở miền Nam lớn mạnh cả về số lượng và chất lượng. Những quân đoàn, binh đoàn tương đương mới được thành lập, đứng chân trên những địa bàn chiến lược quan trọng ở Đông Nam Bộ, Trị-Thiên, Tây Nguyên đã tạo được những chuyển biến rất lớn về so sánh lực lượng ngày càng có lợi cho ta.
 

Vận chuyển vũ khí chi viện cho chiến trường miền Nam (Ảnh tư liệu)


Lúc này, các quân đoàn binh chủng hợp thành được trang bị khá mạnh, sức đột kích lớn, sức cơ động cao, sức chiến đấu liên tục, cùng với việc phát triển của bộ đội địa phương và dân quân du kích rộng khắp đã giúp ta mở được các chiến dịch tiến công quy mô lớn trên các vùng chiến lược ở chiến trường miền Nam, kể cả những nơi sát trung tâm đầu não của địch, đánh tiêu diệt làm tan rã lực lượng lớn quân địch, làm thay đổi hẳn so sánh lực lượng và cục diện chiến trường có lợi cho lực lượng cách mạng.

Trên các hướng trọng yếu, ta củng cố và mở rộng bàn đạp tiến công chuẩn bị tương đối tốt cho các mặt dự trưc vật chất, đường cơ động chiến lược, chiến dịch để chuẩn bị cho những trận đánh lớn. Tình hình so sánh lực lượng giữa ta và địch cho những thay đổi căn bản. Những điều kiện cho việc giải phóng hoàn toàn miền Nam đang chín muồi.

Trong khi thế và lực của ta ở miền Nam đang phát triển thuận lợi, thì ở bên kia bán cầu, nội tình nước Mỹ đã xảy ra vụ bê bối Watergate dẫn đến việc Hạ nghị viện Mỹ truy tố Tổng tống Richard Nixon, buộc y phải đọc diễn văn từ chức trên truyền hình vào đêm ngày 9/8/1974.

Sự thay đổi Tổng thống Mỹ không những làm thay những diễn biến quan trọng trong nội bộ chính trị nước Mỹ mà còn ảnh hưởng trực tiếp làm thay đổi cán cân lực lượng của Việt Nam Cộng hòa trong cuộc chiến với quân giải phóng.

Trong bối cảnh khó khăn về nhiều mặt, Tổng thống Mỹ Ford thực hiện cắt giảm mạnh viện trợ cho chính quyền và quân đội Sài Gòn. Đánh giá về việc cắt giảm viện trợ của Mỹ cho Việt Nam cộng hòa, tác giả Gabriel Kolko viết: “Việc quốc hội không viện trợ bổ sung đã đẩy Việt Nam Cộng hòa vào một cuộc khủng hoảng tâm lý và chính trị trong giai đoạn cuối cùng của cuộc đời nó” [4]. Do không có đủ hỗ trợ về tài chính và trang bị từ Mỹ, quân đội Việt Nam Cộng hòa không thể đánh theo cách mà Mỹ đã huấn luyện, mà buộc Nguyễn Văn Thiệu phải kêu gọi quân đội tác chiến theo kiểu “con nhà nghèo. Thực tế đó, dẫn quân đội Việt Nam Cộng hòa bị trói chân vào các vị trí phòng thủ tại chỗ.

Thêm vào đó, đa phần trong giới chức và nhân dân Mỹ đã quá chán ghét chiến tranh. Phong trào biểu tình đòi hòa bình, phản đối chiến tranh của nhân dân Mỹ và nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới ngày càng dâng cao đã làm cho chính quyền Mỹ rất lúng túng.

Tình hình thế giới và thực tế chiến trường miền Nam với những thắng lợi ngày càng to lớn của quân đội và nhân dân Việt Nam đã báo hiệu một thời cơ lớn đang đến gần để quân giải phóng mở cuộc phản công chiến lược nhằm hoàn thành sự nghiệp giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Nhận thức rõ thời cơ đó, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo toàn quân, toàn dân với quyết tâm cao nhất về mọi mặt, huy động mọi khả năng nhân, tài, vật lực của cả nước để dồn sức cho trận quyết chiến chiến lược cuối cùng./.

1. Đảng Cộng sản Việt Nam, văn kiện Đảng, toàn tập, tập 34, nxb CTQG, 2004
2. Đại thắng mùa xuân năm 1975, sức mạnh của trí tuệ Việt Nam, nxb CTQG, Hà Nội, năm 2010
3. Viện sử học, Sức mạnh chiến thắng của kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1985.
4. Gabriel Kolko, Giải phẫu cuộc chiến tranh, Nxb Quân đội Nhân dân, Hà Nội, 2003.
Ban truyền thông
Đánh giá:
Tổng số điểm của bài viết là: 5/5 trong 3 đánh giá
Chia sẻ:
TIN KHÁC